PSO – Với tâm niệm tri ân và báo ân, tưởng niệm công hạnh hoằng truyền chánh pháp và khai sáng phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX, ngày 13/07/2025 (nhằm ngày 19/06/năm Ất Tỵ), Ban Quản Trị cùng môn đồ pháp quyến Trang nghiêm tổ chức Lễ tưởng niệm lần thứ 78 ngày Tổ sư Lê Khánh Hòa viên tịch (1947-2025) trong không khí trang nghiêm và thành kính tại Khu di tích lịch sử quốc gia Chùa Tuyên Linh (xã An Định, tỉnh Vĩnh Long).
Buổi lễ được sự quang lâm chứng minh và tham dự của: HT. Thích Lệ Đức, HT. Thích Lệ Linh - Đồng thành viên HĐCM TW, Đồng Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long; HT. Thích Nhựt Tấn - UV Thường trực HĐTS, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long; TT. Thích Trí Thọ - UV HĐTS, Phó Trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long; TT. Thích Thanh Mẫn, TT. Thích Huệ Đức - Đồng Phó BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long; ĐĐ. Thích Trí Thuận - Phó BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long, Trưởng Ban quản trị Chùa Tuyên Linh; cùng Chư Tôn Đức giáo phẩm thường trực BTS GHPGVN tỉnh và BTS GHPGVN các xã; Chư Tôn Đức Tăng Ni trụ trì các tự viện trong và ngoài xã; quý nam nữ Phật tử gần xa đồng về tham dự buổi lễ.
Về phía lãnh đạo chính quyền các cấp có sự tham dự: Về phía lãnh đạo cấp tỉnh: Bà Nguyễn Thị Minh Trang – UV BTV tỉnh ủy, Trưởng Ban tuyên giáo và Dân vận tỉnh ủy Vĩnh Long; Bà Nguyễn Thị Kim Thoa – Tỉnh UV, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Vĩnh Long; Ông Bùi Văn Bia – Nguyên Trưởng Ban tuyên giáo và Dân vận tỉnh ủy Bến Tre; Ông Bùi Văn Hải Em – Phó Trưởng Ban tuyên giáo và Dân vận tỉnh ủy Vĩnh Long; Ông Phạm Ngọc Thành - Phó Ban Tôn giáo thuộc sở dân tộc và Tôn giáo tỉnh Vĩnh Long; Về phía lãnh đạo cấp xã: Ông Hà Quốc Cường – Bí thư Đảng ủy xã Mỏ Cày; Ông Đỗ Hoàng Minh – Bí thư Đảng ủy xã An Định; Ông Nguyễn Văn Trung – Chủ tịch UBND xã An Định; Bà Trần Thị Thúy – Bí thư Đảng ủy xã Hương Mỹ; Ông Nguyễn Văn Nang – Phó Chủ tịch UBND xã Hương Mỹ; Ông Phạm Xuân Đông – Phó Bí thư Đảng ủy xã Thành Thới; Ông Võ Hoàng Anh – Phó Chủ tịch UBND xã Thành Thới; cùng quý lãnh đạo đại diện các ban ngành, đoàn thể tỉnh; đoàn thể xã đồng về tham dự.
Mở đầu buổi lễ, môn đồ pháp quyến trang nghiêm cung thỉnh chư Tôn đức quang lâm chánh điện, thực hiện nghi thức khai kinh bạch Phật và ngọ cúng, kính dâng pháp âm lên Giác linh Tổ sư.
Sau nghi thức tụng kinh và ngọ cúng, Chư tôn đức Tăng Ni và đại biểu chính quyền quang lâm Tổ đường, thành kính dâng hương, đảnh lễ tưởng niệm, nhiễu tháp và đảnh lễ trước tôn dung Tổ sư Lê Khánh Hòa, bày tỏ niềm tri ân sâu sắc đối với vị Cao Tăng thạc đức đã cả đời tận tụy cho sự hưng thịnh của Phật giáo nước nhà.
Tại buổi lễ, HT. Thích Lệ Đức - Thành viên HĐCM TW, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long đã trang nghiêm cung tuyên tiểu sử Tổ sư Lê Khánh Hòa, ôn lại hành trạng, đạo nghiệp cao dày và công lao chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời cận đại của Ngài.
*Theo đó, Tổ Lê Khánh Hòa, thế danh Lê Văn Hiệp, húy Như Trí, hiệu Khánh Hòa. Ngoài ra, Tổ còn có pháp húy Như Lợi, hiệu Bảo Thông khi đắc pháp với Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ. Tổ xuất thế ngày 22/04/Mậu Dần (23/05/1878). Thân phụ là Cụ ông Lê Văn Chất, thân mẫu là Cụ bà Đỗ Thị Nương. Quê quán tại thôn Phú Lễ, tổng Bảo Trị, hạt Bến Tre (nay là xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).
- Thuở nhỏ, Tổ học Nho với các cụ đồ trong làng, sau đến học với Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, thời gian học chưa bao lâu Cụ đồ Chiểu tạ thế (ngày 03/7/1888), Hòa thượng Chơn Tánh (trụ trì chùa Khải Tường, Bình Đông, Ba Tri) rước Tổ về chùa Khải Tường cho quy y và tiếp tục học kinh sử trong 08 năm (11-19 tuổi).
- Năm 1894, tại chùa Long Phước, Tổ đem chí nguyện xuất gia của mình trình bày với Hòa thượng Chơn Tánh. Ngài Chơn Tánh hứa sẽ dìu dắt Tổ trên đường tu học. Rằm tháng 3 năm Bính Thân (27/4/1896), Tổ đã 19 tuổi, được sự đồng ý của song thân và sự giới thiệu của Hòa thượng Chơn Tánh đến làm đệ tử xuất gia với Hòa thượng Hải Lương Chánh Tâm tại chùa Kim Cang, Tân An. Ngài Chánh Tâm cho Pháp danh là Khánh Hòa, tự Như Trí. Năm sau (20 tuổi, năm 1897), Tổ thọ giới Cụ túc tại chùa Kim Cang. Năm 1903, Tổ được Hòa thượng Chánh Tâm gửi đến học với Hòa thượng Đạt Thụy Bửu Quang tại chùa Long Triều, làng Tân Nhựt, Chợ Đệm. Từ chùa Long Triều, Tổ có dịp được tiếp xúc với Tổ Minh Phương Chơn Hương, Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ và tham học Trường Phật học Sông Tra, đặt tại chùa Linh Nguyên, sau đó Tổ đến cầu Chánh pháp nhãn tạng với Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ (1846-1916), đời thứ 38 tông Lâm Tế, tại chùa Long Thạnh, Bà Hom trở thành đời pháp thứ 39 dòng thiền Lâm Tế phả hệ của Tổ Đạo Mân.
- Năm 1906, Hòa thượng Đạt Thụy Bửu Quang viên tịch, Tổ trở về chùa Khải Tường mới hay Hòa thượng Chơn Tánh (chùa Khải Tường), Hòa thượng Khánh Phong, chùa Tuyên Linh đã viên tịch. Ngày 14 tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907), theo lời mời của ông cả Nguyễn Duy Quí (chủ chùa Tiên Linh) và Di chúc của Hòa thượng Chơn Tánh, Tổ đến trụ trì chùa Tiên Linh.
- Từ năm 1920 đến 1947, Tổ đã tích cực thực hiện phong trào Chấn hưng Phật giáo tại miền Nam, Việt Nam và nuôi giấu cán bộ hoạt động Cách mạng tại chùa Tuyên Linh.
- Cuối năm, 1946 Tổ về nhà ông Đoàn Hạnh Huỳnh ẩn tích. Cũng từ ấy, sức khỏe của Tổ yếu dần. Tháng 2 năm 1947, Hòa thượng Thái Không rước Tổ về chùa Tuyên Linh. Ngày 19/6/Đinh Hợi (ngày 05/8/1947), Tổ thị tịch tại chùa Tuyên Linh, thọ 70 tuổi đời, 49 tuổi đạo.
- Khi Tổ Lê Khánh Hòa viên tịch, nhục thân của Tổ được an trí trong khuôn viên chùa Tuyên Linh. Tám năm sau (1955), ngày 10, 11, 12 tháng 5 năm Ất Mùi, Tổ Huệ Quang (lúc này đang là Pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt) hướng dẫn phái đoàn về Tổ đình Tuyên Linh hợp cùng bổn đạo làm lễ trà tỳ linh cốt Tổ sau đó tro xá lợi được nhập tháp phổ đồng tôn thờ tại chùa Tuyên Linh. Khi cải táng, ngoài linh cốt Tổ còn có lá y thất khi sinh tiền Tổ đã sử dụng trên 30 năm và đã khâm liệm theo Tổ suốt 8 năm dưới lòng đất không hư hoại.
- Sự nghiệp của Tổ sư: Hiện nay, nhiều tác phẩm nói về cuộc đời và sự nghiệp Tổ Khánh Hòa của những nhà nghiên cứu được xuất bản, nội dung đã nêu khá đầy đủ những gì Tổ đã làm được. Tuy nhiên, trong đó còn vài điểm cần bàn thêm, cụ thể như:
- Thuở thiếu thời, Tổ đã toát ra là người có ý chí, đức độ lớn, tham học nơi nào cũng được thầy quý bạn thương. Khi về trụ trì chùa Tiên Linh, được nam nữ lão ấu trong vùng kính trọng, ngay cả bộ ván mà ngài thường nằm người ta cũng xá lạy, nhiều vị đã cúng nhiều ruộng đất cho chùa, giúp Tổ phát triển già lam, hoằng truyền Phật pháp, hiện nay danh sách ấy vẫn còn tại chùa. Những người bạn của Tổ như Tổ Huệ Quang, Khánh Anh, Pháp Hải, Thiện Niệm, Chơn Huệ .v.v... hết mực quý mến.
- Cả đời Tổ sống tương rau đạm bạc, tiết kiệm, thương đạo chúng, thương dân. Trước khi viên tịch còn dặn dò: “... tôi tịch rồi không nên làm tháp. Liệm vào hòm ván mỏng, mặc một cái áo tràng, ngoài đắp một cái y thất điều bình nhựt thường mặc; đầu để trần, chân cũng để trần. Còn quần áo dư cho đạo chúng mặc; hai bên và trên dưới độn lá chuối hoặc rơm, chế dầu đậy nắp thiêu lấy tro để vào cái hũ nhỏ, chôn dưới ghế thờ Tổ. Đợi chừng nào các vị Đại đức Tăng già lập tháp “Phổ đồng” sẽ đem vào đó... Tôi theo luật thanh quy, tiết kiệm, để dư tiền bố thí ...”.
- Thời vừa tròn 18 tuổi, ngài đã thông kinh sử Nho gia; sau khi xuất gia, chỉ có 7 năm học tập (1896-1904), Tổ đã thành một Pháp sư tài giỏi, được các bậc Tôn túc bấy giờ hết lời khen ngợi khi giảng bộ Kim Cang Chư Gia tại Trường hạ chùa Long Hoa. Từ đó về sau, năm nào Tổ cũng được Chư tôn mời dạy trường Hạ. Năm 1927, các bậc Tôn túc kỳ đức tại Quy Nhơn như Quốc sư Phước Huệ đã nghe danh Tổ, các ngài đã mời Tổ ra Quy Nhơn giảng Hạ, năm sau lại mời giảng tiếp. Những năm kế sau, Tổ bận việc chấn hưng Phật giáo tại miền Nam nên không đi nữa.
- “Sau khi Tổ cử Thầy Thiện Chiếu ra Bắc bộ vận động chấn hưng Phật giáo thất bại. Tháng giêng năm Kỷ Tỵ (1929), Tổ trở lại quê nhà quyết định đi cổ động chấn hưng Phật giáo miền Nam trước, kêu gọi sự đồng tình, ủng hộ với ba phương châm: 1. Chỉnh đốn Tăng già. 2. Kiến lập Phật học đường. 3. Diễn dịch và xuất bản kinh sách Việt ngữ. Với Chí nguyện cao cả đó là hành trang theo ngài trên mọi nẻo đường từ tỉnh này sang tỉnh khác. Ngài đem hết can tràng tha thiết chỉ rõ sự suy đồi và nguy cơ bị tiêu diệt của Phật giáo nếu không sớm chấn hưng. Tuy nhiên, chỉ có các vị như Huệ Quang, Kim Huê, Vạn An, Liên Trì, Viên Giác... tỏ ra đồng tình ủng hộ triệt để và hết lời ca ngợi việc làm cao đẹp này. Ngoài ra, hầu hết chỉ nghĩ đến tông môn mình, chùa mình và từ chối thoái thác cộng tác. Đôi khi Tổ còn bị những người ấy công kích hủy báng hết sức thậm tệ... Nhưng ngài vẫn không nản chí, mà ngược lại càng nhẫn nại và sáng suốt hơn bao giờ hết”.
- Năm 1929, trong công cuộc vận động kinh phí để xây dựng Thích Học Đường (trường Phật học), Pháp bảo phường, Duyệt kinh thất, Thư xã, thỉnh Đại tạng kinh... tuy đã có Cư sĩ Lâm Quang Thời và bà Hai Sáng ở Trà Vinh cúng 1.000 đồng (trị giá 100 lượng vàng lúc bấy giờ); bà Ba Ngởi (Lê Thị Nghĩa ở Giồng Trôm, Bến Tre) cúng 300 đồng; Tổ Phi Lai (Hòa thượng Chí Thiền ở Châu Đốc) đóng góp 300 đồng; Hòa thượng Chánh Quả (chùa Kim Huê, Sa Đéc) đóng góp 60 đồng, nhưng vẫn chưa đủ. Tổ về chùa Tiên Linh (chùa Tuyên Linh) mời hết bổn đạo về chùa họp bàn bán ngôi chánh điện chùa Tiên Linh để lấy tiền làm Phật sự. Phật tử đồng ý bán với giá 1.000 đồng, làng Ba Tri mua để làm đình.
- Trên bước đường tham học với các bậc Tổ đức, Tổ Khánh Hòa đã hấp thụ tinh thần yêu nước từ Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ. Vì thế về sau, Tổ đã cầu Chánh pháp nhãn tạng nơi Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ tại chùa Long Thạnh, Bà Hom.
- Năm 1920, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Hồ Chủ tịch) về chùa Tuyên Linh, được Tổ Khánh Hòa quý trọng mời ở lại tại chùa Tuyên Linh, dịch kinh, dạy học và bốc thuốc giúp dân nghèo trong vùng, qua đó vừa che mắt mật thám Pháp vừa tập hợp nhân dân để tuyên truyền lòng yêu nước chống ngoại xâm. Hai nhà trí thức một đời, một đạo gặp nhau cùng chung một mục đích lợi đạo ích đời, đã có những hành động cụ thể mang lại những kết quả thiết thực nhằm góp phần làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Tuy thời gian ở đây không dài, nhưng cụ Phó bảng đã góp phần gieo những hạt giống tốt cho phong trào cách mạng, phong trào yêu nước. Nhiều học trò của cụ và những người quan hệ với cụ sau này trở thành cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản như: lương y Trần Văn An, Lê Văn Phát, sư Thiện Chiếu, sư Thái Không, sư Thành Nghiêm, sư Thành Chí, sư Thành Đạo, v.v…”, nhưng rồi giặc Pháp ráo riết theo dõi, lùng bắt những cán bộ Cách mạng, những người dân yêu nước. Năm 1928, Mật thám Pháp để ý đến chùa Tuyên Linh, Tổ thấy không thể che giấu cụ Phó bảng được nữa, nên đã kịp thời tổ chức một chiếc ghe mui bít, và cho 03 người tin cậy là ông Trần Văn Thàng, ông Nguyễn Duy Hòa, ông Đoàn Văn Ngưu nửa đêm đưa cụ Phó bảng đến tận chùa Hòa Long, Cao Lãnh. Cuối tháng 11/1929, Cụ Phó bảng lâm trọng bệnh và qua đời, đồng bào Hoà An, Cao Lãnh chôn cất tử tế bên cạnh chùa Hoà Long.
- “Thời gian từ năm 1922 đến 1964, chùa Tuyên Linh vừa là nơi tu hành của những vị xuất gia, vừa là nơi nuôi giấu cán bộ hoạt động Cách mạng, trong chùa luôn có khoảng từ 10 đến 15 vị như: cụ Nguyễn Sinh Sắc, cụ Nguyễn Văn Đỏ, cụ Nguyễn Văn Bảo, cụ Nguyễn Thế Xương, cụ Ngô Quảng Chương, cụ Phạm Quang Chất, cụ Huỳnh Văn Thình, cụ Huỳnh Văn Trình (Hoài Thanh) v.v...”.
- “Năm 1937, ở (chiến trường) Nam Bộ, phong trào cách mạng chưa đều khắp, Tổ cho một số sư sãi ra hoạt động: như ông Nguyễn Văn Minh (sau làm Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ), Thầy Thiện Chiếu v.v..., Lưỡng Xuyên Phật học tạm ngưng hoạt động”. Việc làm lễ tiễn các vị tu học lên đường tham gia kháng chiến, ông Trần Nguyên Chấn tức tối viết nhiều bài đăng trên Tạp chí Từ Bi Âm đả kích Tổ Lê Khánh Hòa.
- Tháng 7 năm 1926, sau khi mãn Hạ tại chùa Long Phước, tỉnh Trà Vinh, Tổ Khánh Hòa đem việc chấn hưng Phật giáo bàn với Hòa thượng Huệ Quang, Tổ chỉ rõ: “Tăng đồ hủ bại, Phật giáo suy vi, chung quy là do tăng đồ thất học mà ra”. “Tổ vạch ra chương trình: lập hội Phật giáo; Thỉnh ba tạng kinh dịch ra chữ quốc ngữ; Lập trường Phật học gấp lo đào tạo Tăng tài; Xuất bản tạp chí phổ biến giáo lý đạo Phật, kêu gọi tăng đồ thức tỉnh, chấn hưng lại nếp sống v.v… Tuy nhiên, khi bàn đến bước đi cụ thể thì hai vị đều thấy bốn phương mù mịt, chưa có ai đủ ánh sáng nhận thức để tham gia, và khó khăn nhất là dựa vào nguồn tài chính nào để khuấy động phong trào trong khi hai vị đều nghèo với ngôi chùa ở nơi thôn quê tỉnh lẻ”.Thế mà Tổ Khánh Hòa đã kiên trì nhẫn nại lặn lội đi khắp các tỉnh miền Tây để vận động, giúp phong trào chấn hưng được luôn tiếp tục và phổ cập.
- Năm 1931, Tổ và các bạn đồng chí hướng của mình thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, năm sau xuất bản tờ Tạp chí Từ Bi Âm (1932). Mục đích của Tổ là làm nền tảng để thành lập một tổ chức Phật giáo toàn quốc. Tuy nhiên, chí nguyện của Tổ đã không thành do nhiều trở lực. Tình thế không thể cứu vãn, Tổ lãnh đạo ở đây chỉ có 02 năm rồi cùng Tổ Huệ Quang lui về Trà Vinh mở trường đào tạo Tăng tài. Mặt khác, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học cũng chưa đưa ra được một mô hình tổ chức Giáo hội vững chãi, phải đợi đến Hội An Nam Phật học tại miền Trung thành lập mới có được mô hình tổ chức gần giống như cơ quan Trung ương GHPGVN hiện nay.
- Năm 1928, Tổ cùng Hòa thượng Từ Nhẫn, Hòa thượng Chơn Huệ và Hòa thượng ThiệnNiệm xây dựng Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại chùa Linh Sơn, số 149, đường Douaumont, Sài Gòn. Trong khi đó Tổ cùng các bạn đồng chí hướng quyết định thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học để làm bàn đạp tiến tới thành lập Phật giáo Tổng hội. Năm 1931, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập, ngày 01-3-1932, Tạp chí Từ Bi Âm được chào đời, chùa Linh Sơn được lấy làm trụ sở, ngay cạnh khu đất riêng của ông Trần Nguyên Chấn. Ngay sau đó, sáu căn nhà ngói được khởi công xây dựng trên khu đất của ông Trần Nguyên Chấn (gần chùa Linh Sơn) với sự đồng ý của ông này. Khuôn viên chùa chật hẹp nên thư viện (Pháp Bảo Phương) cũng được xây cất trên đất ông Chấn. Bàn ghế tủ giường của Thích Học Đường đã được trang bị cho học tăng nội trú nhưng mãi đến 1934 mà trường này vẫn chưa khai giảng. Việc lập Phật học đường của Tổ Khánh Hòa thất bại vì các ngài đã không nắm được thực quyền trong hội. Hội đã bị một số cá nhân dùng địa vị trong xã hội của họ để khuynh loát và hướng dẫn về một nẻo khác.
Thấy không thể cứu vãn tình hình, năm 1933, Tổ Khánh Hòa cùng Tổ Huệ Quang lui về Trà Vinh lập Liên Đoàn Phật Học Xã, lớp học này có khoảng 50 vị tham dự, nhưng cũng chỉ tồn tại được ba khóa, mỗi khóa 3 tháng. Năm 1934, Tổ lại cùng các đồng chí của mình thành lập Phật học đường Lưỡng Xuyên, tồn tại được 5 năm rồi đóng cửa. Những vị Tăng tiêu biểu của Trường này có thể kể như: Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Hành Trụ, Hòa thượng Chí Quang, Hòa thượng Hiển Thụy, Hòa thượng Chánh Quang... Chương trình học của trường này chỉ ở Trung cấp, muốn học cao hơn phải ra Phật học đường Trúc Lâm (sau dời về chùa Tây Thiên) ở miền Trung.
- Một số lĩnh vực khác của Tổ sư: Đưa tuổi trẻ vào đạo Phật; Tham gia hoạt động xã hội. “Hội Phật học Kiêm Tế chứng minh đường lối nhập thế của mình bằng cách tổ chức phát thuốc, chẩn tế, nuôi dưỡng cô nhi. Nhưng hội cũng ngấm ngầm tổ chức kháng chiến bạo động. Chùa Tam Bảo ở Rạch Giá bị nhân viên mật thám Pháp vây bắt, lục soát. Họ tìm ra được nhiều tạc đạn nội hóa và truyền đơn cách mạng. Hòa thượng Trí Thiền, Hội trưởng của hội cùng nhiều cộng sự bị bắt bớ, tra tấn, và cuối cùng bị đày ra Côn Đảo. Ảnh hưởng của Hội Phật học Kiêm Tế vì vậy cũng không được sâu rộng và lâu dài”.
Tiếp theo, TT. Thích Trí Thọ - UV HĐTS, Phó Trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long tát bạch thay mặt môn đồ pháp quyến cung thỉnh HT. Thích Nhựt Tấn - UV Thường trực HĐTS, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long đảm nhận vai trò làm Trưởng tông phong Tổ đình Tuyên Linh – tiếp nối đạo nghiệp của Tổ sư, duy trì mạng mạch Phật pháp và lan tỏa lý tưởng chấn hưng.
HT. Thích Nhựt Tấn đã hoan hỷ nhận lời và ban đạo từ, nhấn mạnh công hạnh của Tổ sư Lê Khánh Hòa là tấm gương sáng ngời cho hàng hậu học noi theo. Ngài kêu gọi chư Tôn đức và Phật tử tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, phụng sự Đạo pháp, góp phần làm hưng thịnh nền Phật giáo nước nhà.
Sau lời đạo từ, HT. Thích Nhựt Tấn niệm hương tưởng niệm lên giác linh tổ sư, Chư Tôn đức Tăng Ni, đại biểu các cấp chính quyền và toàn thể hội chúng đồng dâng hương tưởng niệm lên Giác linh Tổ sư Lê Khánh Hòa. Khói trầm quyện tỏa, tiếng chuông ngân vang như nối kết tâm thành của muôn người về với cội nguồn đạo pháp.
Buổi lễ kết thúc, ĐĐ. Thích Trí Thuận - Phó BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long, Trưởng Ban quản trị Chùa Tuyên Linh thay mặt Ban Tổ chức đã dâng lời cảm tạ Chư Tôn đức giáo phẩm chứng minh, chư vị đại biểu và quý Phật tử đã không quản ngại đường xa trở về Khu di tích lịch sử quốc gia Chùa Tuyên Linh, đồng tưởng niệm và góp phần làm nên thành tựu viên mãn cho buổi lễ tưởng niệm đầy ý nghĩa.
Lễ tưởng niệm lần thứ 78 ngày viên tịch Tổ sư Lê Khánh Hòa đã khép lại trong bầu không khí trang nghiêm, thiêng liêng và đầy đạo vị. Tấm gương hạnh nguyện và chí cả chấn hưng Phật giáo của Tổ vẫn mãi là ngọn hải đăng soi sáng cho hàng hậu học trên bước đường phụng sự Đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Dưới đây là một số hình ảnh được ghi nhận thêm tại buổi lễ tưởng niệm lần thứ 78 Tổ sư Lê Khánh Hòa:
Ban TT-TT PG tỉnh Vĩnh Long